Công ty than Hạ Long - TKV, tiền thân là Liên hiệp than Quảng Ninh được thành lập ngày 08 tháng 01 năm 1988 theo quyết định số: 07 QĐ/UB ngày 08 tháng 01 năm 1988 của UBND tỉnh Quảng Ninh.
Liên hiệp than Quảng Ninh được thành lập ban đầu có 2 đơn vị trực thuộc là Xí nghiêp than Cẩm phả, Mỏ than Suối Lại, với mục đích khai thác các vùng tài nguyên nhỏ lẻ, nằm phân tán rải rác ở những vùng sâu, vùng xa, trữ lượng tài nguyên không lớn.
Để đáp ứng cho việc tăng sản lượng than và phát triển, Liên hiệp đã được UBND tỉnh Quảng Ninh ban hành QĐ số 179-TCCB ngày 02/4/1988 thành lập Mỏ than Hà Ráng và QĐ số 567 QĐ/UB, ngày 15 tháng 9 năm 1988 thành lập Cảng Sa Tô (đến ngày 20 tháng 4 năm 1991 Chủ tịch UBND tỉnh ra quyết định số: 512-QĐ/UB V/v đổi tên Cảng Sa Tô thành Xí nghiệp chế biến và kinh doanh than).
Trong những ngày đầu mới thành lập Liên hiệp than Quảng Ninh đã được sự quan tâm giúp đỡ và chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ, UBND,các Sở ban ngành thuộc tỉnh Quảng Ninh về nhiều mặt. Do cơ sở vật chất kỹ thuật của Liên Hiệp còn nghèo nàn, cán bộ kỹ thuật, quản lý còn thiếu cả về số lượng và chất lượng, chưa nhiều kinh nghiệm trong công tác quản lý, điều hành sản xuất và khai thác mỏ. Phương pháp khai thác than của Liên Hiệp ở thời điểm này mang tính chất tận thu lộ vỉa với quy mô mỏ nhỏ. Công nghệ khai thác giản đơn, trình độ cơ giới hoá ở mức độ thấp. Sản lượng than khai thác bình quân trong những năm từ 1988 -:- 1991 chỉ đạt từ 150.000 -:-200.000tấn/năm.
Để có khả năng phát triển, tăng trưởng, phù hợp với yêu cầu đổi mới, ngày 26/ 9/1992, UBND tỉnh Quảng Ninh đã ký quyết định số: 2265 QĐ/UB về việc chuyển Liên hiệp than Quảng Ninh thành Công ty than Quảng Ninh. Ngày 17/12/1992 UBND tỉnh Quảng Ninh ban hành quyết định số:2852-QĐ/UB V/v thành lập doanh nghiệp nhà nước Công ty than Quảng Ninh với chức năng, nhiệm vụ là đơn vị sản xuất kinh doanh hạch toán kinh tế độc lập, hoạt động SXKD theo luật Công ty. Công ty có 4 đơn vị trực thuộc, có tư cách pháp nhân không đầy đủ, hạch toán phụ thuộc, chịu sự quản lý và điều hành trực tiếp của Công ty là:
- Xí nghiệp than Cẩm phả.
- Mỏ than Suối Lại.
- Mỏ than Hà Ráng.
- Xí nghiệp chế biến và kinh doanh than.
Sau khi thành lập, Công ty than Quảng Ninh đã chủ động củng cố, tổ chức lại sản xuất, thay đổi mô hình điều hành và quản lý, với phương châm vận động theo cơ chế thị trường và lấy hiệu quả kinh tế SXKD làm thước đo. Công ty đã chú trọng đầu tư bổ sung nguồn nhân lực, năng lực máy móc thiết bị khai thác, vận tải và phục vụ sản xuất. Lựa chọn khai thác những vỉa than có chất lượng tốt đáp ứng được yêu cầu tiêu thụ, chủ động tiếp cận thị trường. Với những tư duy và cách làm như trên, nên trong giai đoạn này Công ty than Quảng Ninh là một trong những đơn vị làm ăn có hiệu quả kinh tế cao của tỉnh Quảng Ninh.
Để tăng sản lượng than khai thác đáp ứng nhu cầu tiêu thụ than trong nước, xuất khẩu, Công ty đã có bước đầu phát triển cả về chiều sâu và cả chiều rộng: mở rộng sản xuất, nhiều mỏ mới được thành lập và xây dựng, đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật từng bước được trưởng thành về mọi mặt:
- Ngày 04/3/1994 Mỏ than Khe Tam được thành lập theo quyết định số: 399 QĐ/UB của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh.
- Nhằm tăng cường công tác quản lý ranh giới mỏ và tăng sản lượng than khai thác, ngày 20/ 6/1995 Xí nghiệp Chế biến và kinh doanh than chuyển nhiệm vụ sang khai thác than, từ đây XN than Bình Minh được thành lập theo quyết định số: 1295 QĐ/UB của UBND tỉnh Quảng Ninh.
Như vậy trong thời kỳ 1992-:-1995, Công ty than Quảng Ninh có 5 đơn vị trực thuộc. Sản lượng than khai thác trong thời kỳ này đạt từ 250.000-:-300.000 tấn/năm. Bước đầu đã tiến hành khai thác than hầm lò. Đội ngũ cán bộ công nhân viên Công ty đã tự học hỏi để từng bước tự hoàn thiện mình và trưởng thành trong công tác quản lý kỹ thuật, nghiệp vụ,điều hành sản xuất, kinh doanh đã đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Thực hiện quyết định số 381-TTg ngày 27/7/1994 và chỉ thị 382-TTg ngày 28/7/1994 của Thủ tướng Chính phủ V/v sắp xếp tổ chức và lập lại trật tự trong khai thác và kinh doanh than trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Ngày 4/11/1994 UBND tỉnh Quảng Ninh đã ký quyết định số: 2186 QĐ/UB thành lập Công ty than Quảng Ninh, gồm 7 đơn vị, trong đó có một số xí nghiệp trước đây trực thuộc các huyện, thị xã trong tỉnh.
Nhằm thống nhất quản lý về mặt kỹ thuật, nghiệp vụ theo mô hình chuyên môn hoá trong sản xuất than, một ngành sản xuất có tính đặc thù riêng, từ ngày 01/01/1995 Công ty than Quảng Ninh thuộc sự quản lý, điều hành SXKD của Tổng công ty than Việt Nam ( Nay là Tập đoàn CN Than – Khoáng sản Việt Nam), tại thời điểm này sau khi sắp xếp, Công ty có chính thức 7 đơn vị trực thuộc: xí nghiệp than Cẩm Phả, Mỏ than Suối Lại, Mỏ than Hà Ráng, Xí nghiệp Chế biến và kinh doanh than, Mỏ than Khe Tam, xí nghiệp than Hoành Bồ, xí nghiệp than Đông Triều.
Ngày 20/7/1996 UBND tỉnh Quảng Ninh đã ký quyết định số: 1721 QĐ/UB V/v chuyển giao Công ty than Quảng Ninh chính thức về Tổng công ty than Việt Nam. Công ty than Quảng Ninh là đơn vị sản xuất kinh doanh, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập, hoạt động theo điều lệ Công ty được Hội đồng quản trị Tổng Công ty than Việt Nam phê duyệt theo quyết định số: 593TVN/ TCCB ngày 26 tháng 2 năm 1997.
Từ khi chính thức là thành viên của Tổng Công ty than Việt Nam, hoạt động của Công ty than Quảng Ninh có thuận lợi do được hướng dẫn quản lý về kỹ thuật, nghiệp vụ của bộ phận chuyên quản thuộc Tổng Công ty than Việt Nam theo đúng quy trình quản lý được đúc rút kinh nghiệm nhiều năm tích luỹ được trong ngành sản xuất than theo mô hình chuyên môn hoá. Cũng từ đây đội ngũ cán bộ quản lý về kỹ thuật, nghiệp vụ của Công ty được trưởng thành. Công tác quản lý và đào tạo nguồn nhân lực được quan tâm, đặc biệt là đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật trẻ, nhiều cán bộ được cử đi tập huấn đào tạo về quản lý trong và ngoài nước, đây chính là yếu tố quan trọng quyết định cho sự phát triển của Công ty trong những năm vừa qua và cho những năm tiếp theo.
Nhằm đáp ứng với yêu cầu sản xuất cũng như nhiệm vụ SXKD mà Tổng Công ty giao cho, Công ty than Quảng Ninh đã huy đồng mọi nguồn vốn hiện có và nguồn vốn tập trung của Tổng Công ty để thăm dò nâng cấp,đánh giá lại các vùng tài nguyên. Quy hoạch, thiết kế kỹ thuật đầu tư khai thác các khu mỏ, nhiều mỏ mới đã được xây dựng.
- Ngày 01/4/1997, Xí nghiệp than Thành Công được thành lập.
- Ngày 27/01/1997, Xí nghiệp Dịch vụ & Kinh doanh than được thành lập.
- Ngày 08/4/1998 mỏ than Tây Bắc Đá Mài được thành lập.
- Ngày 04 tháng 10 năm 2001, XN than Đông Triều đổi tên thành Mỏ than Núi Khánh.
- Ngày 01 tháng 10 năm 1999, xí nghiệp than Cẩm Phả - một trong 10 đơn vị trực thuộc của Công ty đã được Cổ phần hoá và chính thức đi vào hoạt động theo luật của Công ty cổ phần lấy tên là: Công ty Cổ phần than Tây Nam Đá Mài. Đến thời điểm này công ty than Quảng Ninh có 9 đơn vị trực thuộc đó là: Mỏ than Suối Lại, Mỏ than Thành Công, Mỏ than Núi Khánh, Mỏ than Hà Ráng, Mỏ Tây Bắc Đá Mài, Mỏ than Khe Tam, XN Than Bình Minh, XN than Hoành bồ, XN dịch vụ và kinh doanh than.
Với những kết quả và thành tích đạt được liên tục trong nhiều năm, Công ty than Quảng Ninh đã được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba, nhân dịp Công ty than kỷ niệm 10 năm xây dựng và phát triển (8/1/1988 - 8/1/1998).
Trong giai đoạn(1999-:-2001) mặc dù còn gặp nhiều khó khăn do có ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Đông Nam á, ảnh hưởng đến đời sống của cán bộ CNVC ngành than. Nhưng với những biện pháp tích cực trong điều hành sản xuất, đầu tư đổi mới công nghệ khai thác, quản lý kỹ thuật; tăng cường sản xuất than có chất lượng cao,đẩy mạnh công tác tiếp thị bán hàng, quản lý chi phí sản xuất và tiêu thụ. Mục tiêu của Công ty là tiết kiệm chi phí ở mức hợp lý, giảm tối đa những rủi ro trong đầu tư , trong bóc đất đá và đào lò, sử dụng đồng vốn hợp lý vv... Từ đó đã hạ giá thành sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, tăng lợi nhuận ,nên đã duy trì được nhịp độ sản xuất, ổn định việc làm, thu nhập cho người lao động của Công ty. Sản lượng toàn Công ty đạt được trong thời kỳ này đã lên tới gần 700.000 tấn/năm.
Bước sang năm 2002 nhu cầu tiêu thụ than trong nước tăng nhanh do sự phát triển lớn mạnh của các ngành kinh tế khác, thị trường than thế giới cũng tăng cao, ngành than có nhiều cơ hội tăng trưởng và phát triển. Để có điều kiện nâng công suất mỏ, tăng cường đầu tư và cơ giới hoá trong khai thác than, trên cơ sở quy hoạch lại tài nguyên, Công ty đã sắp xếp lại: Sáp nhập xí nghiệp than Suối Lại vào xí nghiệp than Tây Bắc đá Mài và đổi tên thành Xí nghiệp xây lắp và sản xuất than Khe Chàm II, sáp nhập xí nghiệp than Bình Minh vào xí nghiệp than Thành Công, sáp nhập xí nghiệp than Núi Khánh vào xí nghiệp than Hà Ráng. Từ 01/01/2003, Công ty than Quảng Ninh có 6 xí nghiệp trực thuộc: XN than Thành Công, XN than Hà Ráng, XN Xây lắp &Sản xuất than Khe Chàm 2, xí nghiệp than Khe Tam, xí nghiệp than Hoành Bồ, xí nghiệp Dịch vụ và Kinh doanh than. Để phù hợp với sự phát triển chung của ngành than, Hội đồng quản trị Tổng công ty than Việt Nam đã quyết định đổi tên Công ty than Quảng Ninh thành Công ty than Hạ Long kể từ ngày 01/5/2003.
Việc sắp xếp lại các đơn vị đã giúp tăng cường công tác chỉ đạo sản xuất, đầu tư đổi mới công nghệ có hiệu quả, Đặc biệt, không có xáo trộn, cán bộ công nhân viên đều có việc làm, thu nhập ổn định, phấn khởi, an tâm công tác gắn bó với Công ty, điều kiện làm việc của người lao động được cải thiện một cách rõ rệt. Đội ngũ cán bộ công nhân kỹ thuật không ngừng nâng cao về trình độ, tay nghề, đây cũng là tiền đề phát triển cho các năm tiếp theo, cụ thể:
- Năm 2003, Công ty sản xuất 766.000 tấn than nguyên khai, trong đó 534.000 tấn than hầm lò.
- Năm 2004, Công ty đã sản xuất 1.123.000 tấn than nguyên khai, trong đó: 806.000 tấn than hầm lò.
- Năm 2005 công ty đã sản xuất 1.554.000 tấn than nguyên khai, trong đó: 1.088.000 tấn than hầm lò
- Năm 2006 công ty đã sản xuất 1.709.000 tấn than nguyên khai, trong đó 1.333.000 tấn than hầm lò.
- Năm 2007 Công ty than Hạ long sản xuất: 2.083.000 tấn than nguyên khai, trong đó 1.728.000 tấn than hầm lò.
Từ việc đầu tư tích cực mà trong thời gian từ (2003 -:- 2007), sản lượng than nguyên khai của Công ty đã có bước tăng trưởng nhẩy vọt từ 766.000 tấn lên 2.083.000 tấn, bình quân tăng 33%/năm, với các sự kiện đón tấn than sản xuất thứ 01 triệu của năm 2004 và 3 năm sau vào ngày 24/12/2007 Công ty đón tấn than sản xuất thứ 2 triệu của năm 2007. Đó là những thành tích tự hào và đã khẳng định vị thế của Công ty than Hạ Long. Công ty than Hạ Long đã trở thành một trong các Công ty về khai thác than Hầm lò có sản lượn cao. Thực hiện tiêu chí phát triển: Mỏ an toàn- Mỏ sạch - Mỏ ít người- Mỏ hiện đại.
* Bước sang năm 2008, các đơn vị và các khu vực sản xuất của Công ty có sự thay đổi lớn:
- Xí nghiệp Than Hoành bồ điều chuyển về Công ty Than Uông Bí.
- Xí nghiệp Than Thành Công điều chuyển về Công ty Than Hòn Gai.
- Giải thế Xí nghiệp Dịch vụ & KD than để thành lập Công ty Kho vận Hòn Gai.
- Tiếp nhận Xí nghiệp Than Tân Lập chuyển về từ Công ty Than Hòn Gai.
Vậy từ 01 tháng 8 năm 2008, Công ty than Hạ Long có 4 xí nghiệp trực thuộc: XN than Hà Ráng, XN Than Cẩm Thành, xí nghiệp than Khe Tam, xí nghiệp than Tân Lập.
Và đến ngày 01/9/2013, thực hiện theo Quyết định 314 của Chính phủ, Công ty Than Hạ Long – TKV chuyển thành đơn vị chi nhánh hạch toán phụ thuộc của Tập đoàn TKV. Công ty đã thực hiện giải thể các XN trực thuộc và hiện nay bố trí lại thành 04 khu vực sản xuất là: Hà Ráng, Cẩm Thành, Khe Tam, Tân Lập.
Việc sắp xếp lại các vùng tài nguyên và các đơn vị sản xuất trong thời gian này, tuy có gặp một số khó khăn nhất định nhưng được sự quan tâm tạo điều kiện của các cấp, các ngành. Sự nỗ lực vượt khó của tập thể công nhân, cán bộ Công ty đã tạo nên quá trình SXKD có hiệu quả. Cơ cấu tổ chức điều hành sản xuất của Công ty đã cơ bản ổn định, đội ngũ cán bộ của Công ty đã tiến bộ rất nhiều về kinh nghiệm quản lý, tổ chức điều hành thực hiện nhiệm vụ. Tập thể CBCNV Công ty luôn đoàn kết gắn bó, tin tưởng tuyệt đối vào định hướng chiến lược phát triển Công ty và sự lãnh đạo của Ban lãnh đạo Công ty. Bên cạnh đó Công ty luôn nhận được sự chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, sự chỉ đạo giúp đỡ của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các đơn vị bạn. Sau tái cơ cấu đội ngũ cán bộ công nhân ổn định tư tưởng, tay nghề bậc thợ đã tiến bộ nhiều và xác định gắn bó làm việc lâu dài với Công ty. Cán bộ quản lý các lĩnh vực của Công ty đã trưởng thành và hoạt động đồng đều hiệu quả. Diện sản xuất đã ổn định, các dự án mở rộng và duy trì được triển khai đạt tiến độ đề ra. Công tác sản xuất và tiêu thụ than từng bước đạt hiệu quả tích cực.Với những thành tích đạt được, Công ty than Hạ Long đã được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì vào ngày 28/7/2010.
Trong thời gian qua, Công ty Than Hạ Long đã có bước phát triển vượt bậc, cụ thể như sau:
1. Kết quả SXKD hàng năm luôn đạt ở mức cao, đặc biệt là sản lượng than hầm lò.
- Năm 2012 công ty đã sản xuất 1.838.500 tấn than nguyên khai, trong đó 1.476.200 tấn than hầm lò.
- Năm 2013, sản xuất: 1.807.600 tấn than nguyên khai, trong đó 1.599.400 tấn than hầm lò.
-Năm 2014, sản xuất 1.908.699 tấn than nguyên khai , trong đó 1.626.036 tấn than hầm lò.
- Năm 2015, sản xuất 1.883.000 tấn than nguyên khai , trong đó 1.717.000 tấn than hầm lò.
- Năm 2016, kế hoạch sản xuất 1.700.000 tấn than nguyên khai, trong đó 100% là than hầm lò.
2. Công tác đảm bảo An toàn – Vệ sinh lao động:
Công ty đã tích cực triển khai nhiều biện pháp nhằm đảm bảo an toàn cho người lao động; ý thức trách nhiệm của cán bộ chỉ huy điều hành sản xuất và công nhân được nâng cao. Kết quả cho thấy tình hình TNLĐ, sự cố năm sau luôn giảm nhiều so với các năm trước. Thực hiện công tác AT-VSLĐ hàng năm, thông qua hưởng ứng Tuần lễ Quốc gia về AT-VSLĐ-PCCN với nhiều hoạt động thiết thực. Xây dựng và hoàn thiện quy chế thưởng mục tiêu công tác an toàn. Tổ chức huấn luyện và thi AT-VSV giỏi, hội thi cấp cứu mỏ bán chuyên cấp Tập đoàn với thành tích cao. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Công đoàn, ĐTN tổ chức nhiều đợt tuyên truyền vận động CBCNV và kiểm tra chuyên đề, kiểm tra đột xuất tại đơn vị sản xuất ở các khu vực. Xây dựng chương trình kế hoạch AT-VSLĐ hàng năm. Mở các lớp đào tạo bồi dưỡng học tập nâng cao trình độ chuyên môn tay nghề, huấn luyện an toàn cho CBCNV.
Hiện nay Công ty đã triển khai lắp đặt hoàn thiện và đưa vào sử dụng các trạm quạt gió chính góp phần cải thiện tích cực tình trạng thông gió tại các đường lò tại các khu vực sản xuất. Triển khai mua sắm đầy đủ các trang thiết bị bảo hộ cá nhân như mặt nạ phòng bụi, bình tự cứu cá nhân, quần áo BHLĐ để cấp phát cho CBCNV... Trang bị bổ sung thêm máy móc thiết bị để đảm bảo lưu lượng gió ở vị trí làm việc, hệ thống nước dập bụi trong và ngoài lò, đảm bảo việc cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động...
Công tác vệ sinh công nghiệp, môi trường tại các vị trí sản xuất đã được quan tâm đúng mức. Toàn Công ty đang duy trí xây dựng văn hóa an toàn, thống qua các Ngày an toàn Công ty và các hoạt động cụ thể. Thực hiện phong trào Sáng – Thoáng - Xanh - Sạch - Đẹp, đảm bảo AT- VSLĐ. Công tác cải thiện điều kiện lao động và môi trường làm việc của Công ty luôn được quan tâm và thực hiện đúng với pháp luật và quy định. Trong những năm qua, công ty đã đặc biệt chú trọng, hàng năm việc trồng cây phủ bãi thải, hoàn nguyên môi trường các khu đã khai thác được thực hiện tốt, tăng cường các biện pháp xử lý nước, chất thải, nạo vét sông suối, tưới nước, dập bụi trên các tuyến đường vận tải, khu vực sản xuất... ý thức bảo vệ môi trường được thấm nhuần từ người lãnh đạo đến từng công nhân của Công ty.
3. Công tác đầu tư, đổi mới công nghệ, đầu tư xây dựng cơ bản để phát triển bền vững .
- Phải khẳng định rằng dây truyền công nghệ khai thác hiện tại của toàn Công ty than Hạ Long đã được đầu tư theo hướng cơ giới hoá, hiện đại hoá, sánh vai với các Công ty bạn có công nghệ khai thác hầm lò truyền thống và phù hợp với điều kiện địa chất của từng khu mỏ, từng khu vực đáp ứng được với yêu cầu đặt ra, đảm bảo an toàn, nâng cao năng suất lao động, cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động, bảo vệ môi trường và tăng nhanh sản lượng tạo tiền đề phát triển cho các năm sau.
Hiện tại Công ty đang tiếp tục triển khai Dự án Khe Chàm II-IV đây là một Dự án lớn, khi đạt công suất thiết kế sẽ đạt trên 3.500.000 tấn than hầm lò trên năm. Điều chỉnh một phần thiết kế kỹ thuật khu II thuộc dự án Bắc Cọc Sáu, lập thiết kế kỹ thuật thi công Dự án duy trì sản xuất khu Tây Đá Mài. Lập dự án xuống sâu mức - 400 khu vực Hà Ráng.
Tiếp tục thực hiện kế hoạch kỹ thuật dài hạn giai đoạn 2015÷ 2020, chiến lược phát triển Công ty giai đoạn 2015 -:- 2022, tầm nhìn đến năm 2030.
Đẩy mạnh cơ giới hóa đào lò và khai thác than tại các khu vực có khả năng áp dụng các dây truyền cơ giới hóa để tăng năng suất lao động, giảm số người làm việc trong hầm lò. Áp dụng các dây truyền công nghệ phù hợp với khoáng sàng của Công ty tại các khu vực có điều kiện địa chất phức tạp để giải phóng sức lao động cho công nhân. Phối hợp với Viện khoa học công nghệ mỏ triển khai xác định điều kiện địa chất vỉa lựa chọn kết cấu chống giữ hợp lý giảm thời gian và chi phí xén. Công ty đã đầu tư, nâng cấp thiết bị, máy móc như: thuyền trượt, tời hỗ trợ, cải thiện đường đi lại, phương tiện ra vào lò, tàu điện, máng cào, hệ thống băng tải, sàng tuyển chế biến. Trong đào chống lò đã đầu tư, nâng cấp máy khoan, khung giá chống, máy xúc đá, xúc than vv..tạo điều kiện nâng năng suất lao động. Phong trào sáng kiến cải tiến kỹ thuật được đẩy mạnh, góp phần nâng cao hiệu quả làm việc, tăng năng suất giảm giá thành, giá trị làm lợi nhiều tỷ đồng.
Thu nhập của người lao động trong Công ty luôn ở tốp cao trong các đơn vị ngành Than. Năm 2012 đạt 8.480.000 đồng/ người/ tháng. Năm 2013 đạt 8.800.000 đồng/ người/ tháng. Năm 2014 đạt 9.593.000 đồng/ người/ tháng. Năm 2015 đạt 10.520.000 đồng/ người/ tháng.Năm 2016 phấn đấu đạt 10.941.000 đồng/ người/tháng.
Các chế độ ăn định lượng, bồi dưỡng độc hại, ăn ca thực hiện đúng với mức giao của Tập đoàn đồng thời đảm bảo an toàn vệ sinh an toàn thực phẩm, đáp ứng chế độ làm việc theo ca của người lao động và không ngừng đổi mới cách thức phù hợp với điều kiện làm việc, sinh hoạt, giá cả từng thời kỳ. Các nhà ăn tập thể được củng cố và điều hành thống nhất trong toàn Công ty, chất lượng các suất ăn ca, ăn định lượng được duy trì tốt để đảm bảo sức khỏe cho người lao động.
Công ty đóng đúng, đủ các chế độ Bảo hiểm cho các đối tượng CBCNV theo quy định. Khi người lao động ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, mắc bệnh nghề được giới thiệu đến bệnh viện khám và chữa trị đúng chế độ. Đảm bảo thực hiện đầy đủ chế độ điều dưỡng, phục hồi chức năng theo chỉ tiêu của Tập đoàn và chế độ chính sách đối với người lao động, Thực hiện nghiêm túc chế độ điều dưỡng phục hồi chức năng, khám phát hiện bệnh nghề nghiệp, cử đi rửa bụi phổi và khám sức khỏe định kỳ cho CBCNV theo quy định của Pháp luật lao động. Công tác phục vụ ăn, ở, tắm, giặt, đi lại của người lao động được Công ty quan tâm tích cực. Hiện nay có 792 CBCNV ở khu tập thể chung cư 5 tầng, Công ty đã bố trí một số phòng khách để đón tiếp thân nhân gia đình công nhân ra thăm.
Với tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái việc chăm lo đến hoàn cảnh của các gia đình khó khăn, có thân nhân bị tai nạn và người bị tai nạn lao động được đặc biệt quan tâm, chú trọng . Đã thăm hỏi thường xuyên các gia đình chính sách, gia đình công nhân có hoàn cảnh khó khăn, phối hợp với cấp, các ngành đồng thời đề nghị Tập đoàn hỗ trợ kinh phí xây mới và sửa chữa nhà ở cho các công nhân bị tai nạn lao động, gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Trong những năm qua Công ty đã chi hàng tỷ đồng cho công tác này. Uu tiên giúp đỡ nhận thân nhân các gia đình CBCNV có hoàn cảnh khó khăn vào làm việc tại Công ty.
Ngoài ra, Công ty cũng thực hiện tốt việc đóng góp xây dựng các công trình, giúp đỡ các hộ, các xã nghèo, phụng dưỡng các bà mẹ Việt Nam anh hùng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, ủng hộ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt... với số tiền hàng tỷ đồng.
Đã bố trí đủ phương tiện đưa đón CBCNV đi làm. Xây dựng hệ thống tắm nước nóng, nhà giặt, sấy BHLĐ hoạt động tốt. Các văn phòng của phân xưởng sản xuất, phòng ban có đủ tiện nghi phục vụ làm việc và giao ca, hội họp.
Hàng năm, Công ty đã tổ chức cho CBCNV xuất sắc đi tham quan du lịch trong và ngoài nước hoặc chi tiền cho các cá nhân nghỉ tại chỗ hoặc do các đơn vị tự tổ chức nghỉ cuối tuần theo đúng quy định.
Hoạt động văn hóa, thể thao được duy trì và có sự phát triển, hiện nay Công ty đã có sân đá bóng cỏ nhân tạo tổng diện tích: 2.500 m2 và 01 nhà tập luyện thể thao đa năng với tổng diện tích: 800 m2, cơ bản đáp ứng được nhu cầu vui chơi thể thao cho CB CNV đặc biệt là các đối tượng công nhân ở khu tập thể của Công ty. Tham gia đầy đủ các giải thể thao, văn hóa do Tập đoàn tổ chức với kết quả cao.
5. Công tác chăm lo phát triển nguồn nhân lực:
Là một công ty có có đặc thù riêng về địa bàn, cơ cấu, dây chuyền sản xuất. Trong suốt 28 năm qua với từng thời kỳ khác nhau, Công ty luôn xác định rõ vai trò quyết định của nguồn nhân lực trong sự phát triển. Chính vì vậy, công tác chăm lo đời sống, thu nhập, cải thiện điều kiện làm việc, sinh hoạt cho người lao động được đặc biệt chú trọng.
Từ những chính sách quan tâm đến người lao động, những phong trào ôn luyện tay nghề, thi thợ giỏi ở các cấp, tăng cường đào tạo bồi dưỡng bằng nhiều hình thức trong và ngoài nước, đến nay Công ty than Hạ Long có đội ngũ cán bộ công nhân viên là: 4.844 người (nữ 566 người).
Trong đó:
- Thợ lò: 2.235 người;
- Công nhân Cơ điện lò: 501 người;
* Về cơ cấu lao động:
- Lao động quản lý: 583 người
- Lao động phục vụ: 398 người
- Lao động phụ trợ: 701 người
- Lao động TTSX: 3.162 người
Qua 28 năm xây dựng trưởng thành và phát triển, đạt được những thành tích to lớn về mọi mặt là có sự quan tâm và tạo điều kiện của Tập đoàn TKV và các cấp, các ngành; sự lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ Công ty Than Hạ Long, sự phối hợp giữa Chuyên môn với Công đoàn, Đoàn thanh niên và các tổ chức chính trị, xã hội Công ty, sự nỗ lực vượt khó của tập thể CBCNV Công ty
* Vai trò lãnh đạo của Đảng ủy Công ty:
- Từ năm 1996 trở về trước Tổ chức Đảng của Công ty than Quảng Ninh không đồng cấp với chuyên môn. Ban đầu chỉ có các chi bộ trực thuộc là Chi bộ cơ quan Văn phòng Công ty và các Chi bộ nằm trên địa bàn thành phố Hạ Long trực thuộc Đảng bộ Khối Dân chính Đảng sau đó chuyển về Thành uỷ Hạ Long quản lý, Chi bộ các Xí nghiệp trực thuộc: Thị uỷ Cẩm Phả, huyện uỷ Đông triều, huyện uỷ Hoành Bồ. Các tổ chức chính trị khác cũng theo mô hình quản lý trên. Do đó sự lãnh đạo của Đảng, sự phối kết hợp của các tổ chức chính trị trong việc chỉ đạo sản xuất kinh doanh và thực hiện các nhiệm vụ chính trị khác thiếu đồng bộ. Nhằm khắc phục những khiếm khuyết đó, được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng bộ cấp trên. Ngày 02/10/1996, Đảng bộ công ty than Quảng Ninh được thành lập theo Quyết định số: 40QĐ/ĐUT của Ban Thường vụ Đảng uỷ Than Quảng Ninh.
Ngày 21 tháng 6 năm 1997 Đại hội đại biểu Đảng bộ Công ty lần thứ nhất nhiệm kỳ (1997 -:- 2000) được tiến hành, Đại hội đã bầu được 15 đồng chí UVBCH Đảng bộ Công ty khoá I. Tại thời điểm này toàn Đảng bộ có: 10 chi bộ trực thuộc với 206 đảng viên, đây là một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng của toàn Công ty, từ đây mọi sự hoạt động của Công ty đều đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ Công ty.
Từ khi thành lập Đảng bộ công ty than Quảng Ninh nay là Đảng bộ công ty than Hạ Long đã lãnh đạo toàn diện về mọi mặt trong đời sống kinh tế xã hội, trong sản xuất kinh doanh v.v... Đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, kế hoạch năm sau cao hơn năm trước, đời sống cán bộ công nhân viên chức toàn Công ty ngày càng được cải thiện. Đảng bộ Công ty than Hạ Long nhiều năm đã được Đảng bộ cấp trên khen ngợi và đạt danh hiệu là Đảng Bộ trong sạch vững mạnh.
Trong giai đoạn từ 01/10/2013 tới nay: Đảng bộ Công ty luôn tập hợp được những đồng chí có đủ tài năng, phẩm chất và đạo đức cách mạng để lãnh đạo Tập thể CBCNV Công ty hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị cấp trên giao. Ban Chấp hành Đảng bộ Công ty hiện nay có 18 đồng chí; số lượng Đảng viên toàn Đảng bộ là 1020 người. Công tác phát triển Đảng viên được BCH Đảng bộ đặc biệt quan tâm,nhiều quần chúng là nữ, công nhân lao động trực tiếp, nhất là thợ lò, thợ bậc cao và những cán bộ quản lý về kỹ thuật, nghiệp vụ trẻ có năng lực, trình độ được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam. Các đảng viên mới được kết nạp đã phát huy tốt trong từng cương vị được giao, nhiều đồng chí được cất nhắc đề bạt giữ các cương vị chủ chốt, lãnh đạo các phòng kỹ thuật, nghiệp vụ, phân xưởng sản xuất.
* Sự phối kết hợp của các tổ chức đoàn thể, quần chúng:
a- Ra đời cùng với ngày thành lập Công ty, Công đoàn Công ty Than Hạ Long luôn đồng hành với quá trình xây dựng và phát triển của Công ty. Với chức năng phối hợp tham gia quản lý Doanh nghiệp, chăm lo bảo vệ quyền lợi chính đáng và lợi ích hợp pháp của người lao động. Công đoàn Công ty dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng đã có nhiều hoạt động tích cực, tham gia kết hợp với chuyên môn về việc sắp xếp lại tổ chức sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động, kiểm tra giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách, quy chế phân phối tiền lương,tiền thưởng...
Công đoàn Công ty Than Hạ Long phối kết hợp với cơ quan Chuyên môn, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu Chiến binh trong việc tuyên truyền giáo dục công nhân lao động giác ngộ về truyền thống giai cấp công nhân Việt Nam, truyền thống công nhân Vùng Mỏ; Giáo dục rèn luyện xây dựng đội ngũ công nhân theo định hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, có tác phong công nghiệp, ý thức kỷ luật lao động cao, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, tích cực tham gia công tác xã hội, cộng đồng.
Công đoàn Công ty thường xuyên phát động và tổ chức các phong trào thi đua thực hiện mục tiêu “An toàn - Đổi mới – Phát triển - Hiệu quả”, phong trào “ Sáng – Thoáng - Xanh - Sạch - Đẹp, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động”, phong trào “Lao động sáng tạo”, “Ôn lý thuyết- Luyện tay nghề- Thi thợ giỏi”, “Xây dựng đời sống văn hoá tốt ở cơ sở”, phong trào thi đua “Hai giỏi” trong nữ CNVC- LĐ v.v...
Trong 28 năm xây dựng và phát triển, các cấp Công đoàn Công ty Than Hạ Long đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng, phát triển Công ty Than Hạ Long hôm nay. Với kết quả đó, nhiều tập thể, cá nhân cán bộ đoàn viên Công đoàn đã được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Công đoàn cấp trên tặng thưởng nhiều Cờ, Bằng khen, Bằng Lao động sáng tạo. Đặc biệt ngày 15 tháng 7 năm 2014, Công đoàn Công ty than Hạ Long đã được đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba.
b- Đoàn thanh niên Công ty than Hạ Long được thành lập ngày 15/5/1997. Hiện nay có trên 2300 ĐVTN. Liên tục trong các năm, Đoàn thanh niên Công ty luôn đạt danh hiệu vững mạnh xuât sắc trong phong trào thi đua của Đoàn than Quảng Ninh và Tỉnh đoàn Quảng Ninh.
Đoàn thanh niên công ty quan tâm giáo dục,tập hợp, rèn luyện thanh niên thông qua các nội dung hoạt động như : Công tác tuyên truyền giáo dục chính trị tư tưởng, cổ vũ động viên đoàn viên thanh niên xung kích trên mặt trận lao động sản xuất, đẩy mạnh các hoạt động phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, vươn lên làm chủ công nghệ và các máy móc thiết bị mới trong sản xuất.Công tác tư tưởng văn hoá đã được Đoàn thanh niên công ty coi trọng nhằm tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Đoàn thanh niên công ty và các cơ sở đoàn đã chủ động, kịp thời nắm bắt nội dung các chỉ thị nghị quyết của Đảng, của Đảng bộ Than Quảng Ninh, Đảng uỷ Công ty, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh hàng năm của Công ty.
Phong trào hoạt động do Đoàn tổ chức đã lôi cuốn được nhiều đoàn viên thanh niên hăng hái tham gia hưởng ứng,những hoạt động đăng ký đảm nhận nghiên cứu đề tài, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất,đảm nhận công trình, phần việc từ cấp Công ty đến cấp Phòng ban, Phân xưởng, tổ đội; Xây dựng mô hình thanh niên quản lý xe máy, thiết bị, tuyến đường, đường lò thanh niên quản lý đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả vv...đã trở thành nội dung hoạt động phổ biến ở các cơ sở đoàn. Vinh dự cho tập thể CB đoàn viên Công ty, ngày 27/8/ 2013, Đoàn TN Công ty than đã vinh dự được Chủ tịch Nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.
c - Hội Cựu Chiến binh Công ty được thành lập từ ngày 18/2/2014; hiện nay có 164 hội viên. Hội CCB được Đảng bộ Công ty luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao mọi hoạt động của Hội cựu chiến binh, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội cựu chiến binh và các Hội viên trong toàn Công ty. Hội CCB đã làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho hội viên nhằm nâng cao nhận thức vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Hội cựu chiến binh. Củng cố lòng tin, bản lĩnh chính trị, kiên định mục tiêu lý tưởng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Hội viên hội cựu chiến binh đã phát huy được truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” luôn đi đầu gương mẫu trong mọi lĩnh vực công tác, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được phân công, chấp hành tốt mọi chủ trương đường lối chính sách, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Trong những ngày này, CBCNV Công ty Than Hạ Long đang hăng hái thi đua lao động sản xuất để chào mừng kỷ niệm 28 năm ngày thành lậpCông ty. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Công ty, các tổ chức chuyên môn, đoàn thể, các phòng ban phân xưởng, tổ đội cần tuyên truyền sâu rộng những truyền thống tốt đẹp của Công ty Than Ha Long, đặc biệt Truyền thống vượt khó, kỷ luật đồng tâm của công nhân, cán bộ vùng Mỏ, từ đó chung sức, chung lòng gắn bó cùng doanh nghiệp. Động viên khích lệ CBCNV không ngừng nâng cao tinh thần cầu tiến, rèn luyện bản lĩnh chính trị và trình độ kỹ năng tay nghề,bậc thợ. Không ngại gian khổ, vượt qua khó khăn với tinh thần “ Sản xuất Than như Quân đội đánh giặc”, trong mọi hoàn cảnh của trước đây cũng như hôm nay, để thực hiện tốt nhất mọi nhiệm vụ được giao. Phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của toàn Công ty thực hiện mục tiêu An toàn - Đổi mới - Tăng trưởng - Hiệu quả. Vững bước trên con đường xây dựng Công ty Than Hạ Long phát triển bền vững.
Để đáp ứng cho việc tăng sản lượng than và phát triển, Liên hiệp đã được UBND tỉnh Quảng Ninh ban hành QĐ số 179-TCCB ngày 02/4/1988 thành lập Mỏ than Hà Ráng và QĐ số 567 QĐ/UB, ngày 15 tháng 9 năm 1988 thành lập Cảng Sa Tô (đến ngày 20 tháng 4 năm 1991 Chủ tịch UBND tỉnh ra quyết định số: 512-QĐ/UB V/v đổi tên Cảng Sa Tô thành Xí nghiệp chế biến và kinh doanh than).
Trong những ngày đầu mới thành lập Liên hiệp than Quảng Ninh đã được sự quan tâm giúp đỡ và chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ, UBND,các Sở ban ngành thuộc tỉnh Quảng Ninh về nhiều mặt. Do cơ sở vật chất kỹ thuật của Liên Hiệp còn nghèo nàn, cán bộ kỹ thuật, quản lý còn thiếu cả về số lượng và chất lượng, chưa nhiều kinh nghiệm trong công tác quản lý, điều hành sản xuất và khai thác mỏ. Phương pháp khai thác than của Liên Hiệp ở thời điểm này mang tính chất tận thu lộ vỉa với quy mô mỏ nhỏ. Công nghệ khai thác giản đơn, trình độ cơ giới hoá ở mức độ thấp. Sản lượng than khai thác bình quân trong những năm từ 1988 -:- 1991 chỉ đạt từ 150.000 -:-200.000tấn/năm.
Để có khả năng phát triển, tăng trưởng, phù hợp với yêu cầu đổi mới, ngày 26/ 9/1992, UBND tỉnh Quảng Ninh đã ký quyết định số: 2265 QĐ/UB về việc chuyển Liên hiệp than Quảng Ninh thành Công ty than Quảng Ninh. Ngày 17/12/1992 UBND tỉnh Quảng Ninh ban hành quyết định số:2852-QĐ/UB V/v thành lập doanh nghiệp nhà nước Công ty than Quảng Ninh với chức năng, nhiệm vụ là đơn vị sản xuất kinh doanh hạch toán kinh tế độc lập, hoạt động SXKD theo luật Công ty. Công ty có 4 đơn vị trực thuộc, có tư cách pháp nhân không đầy đủ, hạch toán phụ thuộc, chịu sự quản lý và điều hành trực tiếp của Công ty là:
- Xí nghiệp than Cẩm phả.
- Mỏ than Suối Lại.
- Mỏ than Hà Ráng.
- Xí nghiệp chế biến và kinh doanh than.
Sau khi thành lập, Công ty than Quảng Ninh đã chủ động củng cố, tổ chức lại sản xuất, thay đổi mô hình điều hành và quản lý, với phương châm vận động theo cơ chế thị trường và lấy hiệu quả kinh tế SXKD làm thước đo. Công ty đã chú trọng đầu tư bổ sung nguồn nhân lực, năng lực máy móc thiết bị khai thác, vận tải và phục vụ sản xuất. Lựa chọn khai thác những vỉa than có chất lượng tốt đáp ứng được yêu cầu tiêu thụ, chủ động tiếp cận thị trường. Với những tư duy và cách làm như trên, nên trong giai đoạn này Công ty than Quảng Ninh là một trong những đơn vị làm ăn có hiệu quả kinh tế cao của tỉnh Quảng Ninh.
Để tăng sản lượng than khai thác đáp ứng nhu cầu tiêu thụ than trong nước, xuất khẩu, Công ty đã có bước đầu phát triển cả về chiều sâu và cả chiều rộng: mở rộng sản xuất, nhiều mỏ mới được thành lập và xây dựng, đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật từng bước được trưởng thành về mọi mặt:
- Ngày 04/3/1994 Mỏ than Khe Tam được thành lập theo quyết định số: 399 QĐ/UB của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh.
- Nhằm tăng cường công tác quản lý ranh giới mỏ và tăng sản lượng than khai thác, ngày 20/ 6/1995 Xí nghiệp Chế biến và kinh doanh than chuyển nhiệm vụ sang khai thác than, từ đây XN than Bình Minh được thành lập theo quyết định số: 1295 QĐ/UB của UBND tỉnh Quảng Ninh.
Như vậy trong thời kỳ 1992-:-1995, Công ty than Quảng Ninh có 5 đơn vị trực thuộc. Sản lượng than khai thác trong thời kỳ này đạt từ 250.000-:-300.000 tấn/năm. Bước đầu đã tiến hành khai thác than hầm lò. Đội ngũ cán bộ công nhân viên Công ty đã tự học hỏi để từng bước tự hoàn thiện mình và trưởng thành trong công tác quản lý kỹ thuật, nghiệp vụ,điều hành sản xuất, kinh doanh đã đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Thực hiện quyết định số 381-TTg ngày 27/7/1994 và chỉ thị 382-TTg ngày 28/7/1994 của Thủ tướng Chính phủ V/v sắp xếp tổ chức và lập lại trật tự trong khai thác và kinh doanh than trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Ngày 4/11/1994 UBND tỉnh Quảng Ninh đã ký quyết định số: 2186 QĐ/UB thành lập Công ty than Quảng Ninh, gồm 7 đơn vị, trong đó có một số xí nghiệp trước đây trực thuộc các huyện, thị xã trong tỉnh.
Nhằm thống nhất quản lý về mặt kỹ thuật, nghiệp vụ theo mô hình chuyên môn hoá trong sản xuất than, một ngành sản xuất có tính đặc thù riêng, từ ngày 01/01/1995 Công ty than Quảng Ninh thuộc sự quản lý, điều hành SXKD của Tổng công ty than Việt Nam ( Nay là Tập đoàn CN Than – Khoáng sản Việt Nam), tại thời điểm này sau khi sắp xếp, Công ty có chính thức 7 đơn vị trực thuộc: xí nghiệp than Cẩm Phả, Mỏ than Suối Lại, Mỏ than Hà Ráng, Xí nghiệp Chế biến và kinh doanh than, Mỏ than Khe Tam, xí nghiệp than Hoành Bồ, xí nghiệp than Đông Triều.
Ngày 20/7/1996 UBND tỉnh Quảng Ninh đã ký quyết định số: 1721 QĐ/UB V/v chuyển giao Công ty than Quảng Ninh chính thức về Tổng công ty than Việt Nam. Công ty than Quảng Ninh là đơn vị sản xuất kinh doanh, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập, hoạt động theo điều lệ Công ty được Hội đồng quản trị Tổng Công ty than Việt Nam phê duyệt theo quyết định số: 593TVN/ TCCB ngày 26 tháng 2 năm 1997.
Từ khi chính thức là thành viên của Tổng Công ty than Việt Nam, hoạt động của Công ty than Quảng Ninh có thuận lợi do được hướng dẫn quản lý về kỹ thuật, nghiệp vụ của bộ phận chuyên quản thuộc Tổng Công ty than Việt Nam theo đúng quy trình quản lý được đúc rút kinh nghiệm nhiều năm tích luỹ được trong ngành sản xuất than theo mô hình chuyên môn hoá. Cũng từ đây đội ngũ cán bộ quản lý về kỹ thuật, nghiệp vụ của Công ty được trưởng thành. Công tác quản lý và đào tạo nguồn nhân lực được quan tâm, đặc biệt là đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật trẻ, nhiều cán bộ được cử đi tập huấn đào tạo về quản lý trong và ngoài nước, đây chính là yếu tố quan trọng quyết định cho sự phát triển của Công ty trong những năm vừa qua và cho những năm tiếp theo.
Nhằm đáp ứng với yêu cầu sản xuất cũng như nhiệm vụ SXKD mà Tổng Công ty giao cho, Công ty than Quảng Ninh đã huy đồng mọi nguồn vốn hiện có và nguồn vốn tập trung của Tổng Công ty để thăm dò nâng cấp,đánh giá lại các vùng tài nguyên. Quy hoạch, thiết kế kỹ thuật đầu tư khai thác các khu mỏ, nhiều mỏ mới đã được xây dựng.
- Ngày 01/4/1997, Xí nghiệp than Thành Công được thành lập.
- Ngày 27/01/1997, Xí nghiệp Dịch vụ & Kinh doanh than được thành lập.
- Ngày 08/4/1998 mỏ than Tây Bắc Đá Mài được thành lập.
- Ngày 04 tháng 10 năm 2001, XN than Đông Triều đổi tên thành Mỏ than Núi Khánh.
- Ngày 01 tháng 10 năm 1999, xí nghiệp than Cẩm Phả - một trong 10 đơn vị trực thuộc của Công ty đã được Cổ phần hoá và chính thức đi vào hoạt động theo luật của Công ty cổ phần lấy tên là: Công ty Cổ phần than Tây Nam Đá Mài. Đến thời điểm này công ty than Quảng Ninh có 9 đơn vị trực thuộc đó là: Mỏ than Suối Lại, Mỏ than Thành Công, Mỏ than Núi Khánh, Mỏ than Hà Ráng, Mỏ Tây Bắc Đá Mài, Mỏ than Khe Tam, XN Than Bình Minh, XN than Hoành bồ, XN dịch vụ và kinh doanh than.
Với những kết quả và thành tích đạt được liên tục trong nhiều năm, Công ty than Quảng Ninh đã được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba, nhân dịp Công ty than kỷ niệm 10 năm xây dựng và phát triển (8/1/1988 - 8/1/1998).
Trong giai đoạn(1999-:-2001) mặc dù còn gặp nhiều khó khăn do có ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Đông Nam á, ảnh hưởng đến đời sống của cán bộ CNVC ngành than. Nhưng với những biện pháp tích cực trong điều hành sản xuất, đầu tư đổi mới công nghệ khai thác, quản lý kỹ thuật; tăng cường sản xuất than có chất lượng cao,đẩy mạnh công tác tiếp thị bán hàng, quản lý chi phí sản xuất và tiêu thụ. Mục tiêu của Công ty là tiết kiệm chi phí ở mức hợp lý, giảm tối đa những rủi ro trong đầu tư , trong bóc đất đá và đào lò, sử dụng đồng vốn hợp lý vv... Từ đó đã hạ giá thành sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, tăng lợi nhuận ,nên đã duy trì được nhịp độ sản xuất, ổn định việc làm, thu nhập cho người lao động của Công ty. Sản lượng toàn Công ty đạt được trong thời kỳ này đã lên tới gần 700.000 tấn/năm.
Bước sang năm 2002 nhu cầu tiêu thụ than trong nước tăng nhanh do sự phát triển lớn mạnh của các ngành kinh tế khác, thị trường than thế giới cũng tăng cao, ngành than có nhiều cơ hội tăng trưởng và phát triển. Để có điều kiện nâng công suất mỏ, tăng cường đầu tư và cơ giới hoá trong khai thác than, trên cơ sở quy hoạch lại tài nguyên, Công ty đã sắp xếp lại: Sáp nhập xí nghiệp than Suối Lại vào xí nghiệp than Tây Bắc đá Mài và đổi tên thành Xí nghiệp xây lắp và sản xuất than Khe Chàm II, sáp nhập xí nghiệp than Bình Minh vào xí nghiệp than Thành Công, sáp nhập xí nghiệp than Núi Khánh vào xí nghiệp than Hà Ráng. Từ 01/01/2003, Công ty than Quảng Ninh có 6 xí nghiệp trực thuộc: XN than Thành Công, XN than Hà Ráng, XN Xây lắp &Sản xuất than Khe Chàm 2, xí nghiệp than Khe Tam, xí nghiệp than Hoành Bồ, xí nghiệp Dịch vụ và Kinh doanh than. Để phù hợp với sự phát triển chung của ngành than, Hội đồng quản trị Tổng công ty than Việt Nam đã quyết định đổi tên Công ty than Quảng Ninh thành Công ty than Hạ Long kể từ ngày 01/5/2003.
Việc sắp xếp lại các đơn vị đã giúp tăng cường công tác chỉ đạo sản xuất, đầu tư đổi mới công nghệ có hiệu quả, Đặc biệt, không có xáo trộn, cán bộ công nhân viên đều có việc làm, thu nhập ổn định, phấn khởi, an tâm công tác gắn bó với Công ty, điều kiện làm việc của người lao động được cải thiện một cách rõ rệt. Đội ngũ cán bộ công nhân kỹ thuật không ngừng nâng cao về trình độ, tay nghề, đây cũng là tiền đề phát triển cho các năm tiếp theo, cụ thể:
- Năm 2003, Công ty sản xuất 766.000 tấn than nguyên khai, trong đó 534.000 tấn than hầm lò.
- Năm 2004, Công ty đã sản xuất 1.123.000 tấn than nguyên khai, trong đó: 806.000 tấn than hầm lò.
- Năm 2005 công ty đã sản xuất 1.554.000 tấn than nguyên khai, trong đó: 1.088.000 tấn than hầm lò
- Năm 2006 công ty đã sản xuất 1.709.000 tấn than nguyên khai, trong đó 1.333.000 tấn than hầm lò.
- Năm 2007 Công ty than Hạ long sản xuất: 2.083.000 tấn than nguyên khai, trong đó 1.728.000 tấn than hầm lò.
Từ việc đầu tư tích cực mà trong thời gian từ (2003 -:- 2007), sản lượng than nguyên khai của Công ty đã có bước tăng trưởng nhẩy vọt từ 766.000 tấn lên 2.083.000 tấn, bình quân tăng 33%/năm, với các sự kiện đón tấn than sản xuất thứ 01 triệu của năm 2004 và 3 năm sau vào ngày 24/12/2007 Công ty đón tấn than sản xuất thứ 2 triệu của năm 2007. Đó là những thành tích tự hào và đã khẳng định vị thế của Công ty than Hạ Long. Công ty than Hạ Long đã trở thành một trong các Công ty về khai thác than Hầm lò có sản lượn cao. Thực hiện tiêu chí phát triển: Mỏ an toàn- Mỏ sạch - Mỏ ít người- Mỏ hiện đại.
* Bước sang năm 2008, các đơn vị và các khu vực sản xuất của Công ty có sự thay đổi lớn:
- Xí nghiệp Than Hoành bồ điều chuyển về Công ty Than Uông Bí.
- Xí nghiệp Than Thành Công điều chuyển về Công ty Than Hòn Gai.
- Giải thế Xí nghiệp Dịch vụ & KD than để thành lập Công ty Kho vận Hòn Gai.
- Tiếp nhận Xí nghiệp Than Tân Lập chuyển về từ Công ty Than Hòn Gai.
Vậy từ 01 tháng 8 năm 2008, Công ty than Hạ Long có 4 xí nghiệp trực thuộc: XN than Hà Ráng, XN Than Cẩm Thành, xí nghiệp than Khe Tam, xí nghiệp than Tân Lập.
Và đến ngày 01/9/2013, thực hiện theo Quyết định 314 của Chính phủ, Công ty Than Hạ Long – TKV chuyển thành đơn vị chi nhánh hạch toán phụ thuộc của Tập đoàn TKV. Công ty đã thực hiện giải thể các XN trực thuộc và hiện nay bố trí lại thành 04 khu vực sản xuất là: Hà Ráng, Cẩm Thành, Khe Tam, Tân Lập.
Việc sắp xếp lại các vùng tài nguyên và các đơn vị sản xuất trong thời gian này, tuy có gặp một số khó khăn nhất định nhưng được sự quan tâm tạo điều kiện của các cấp, các ngành. Sự nỗ lực vượt khó của tập thể công nhân, cán bộ Công ty đã tạo nên quá trình SXKD có hiệu quả. Cơ cấu tổ chức điều hành sản xuất của Công ty đã cơ bản ổn định, đội ngũ cán bộ của Công ty đã tiến bộ rất nhiều về kinh nghiệm quản lý, tổ chức điều hành thực hiện nhiệm vụ. Tập thể CBCNV Công ty luôn đoàn kết gắn bó, tin tưởng tuyệt đối vào định hướng chiến lược phát triển Công ty và sự lãnh đạo của Ban lãnh đạo Công ty. Bên cạnh đó Công ty luôn nhận được sự chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, sự chỉ đạo giúp đỡ của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các đơn vị bạn. Sau tái cơ cấu đội ngũ cán bộ công nhân ổn định tư tưởng, tay nghề bậc thợ đã tiến bộ nhiều và xác định gắn bó làm việc lâu dài với Công ty. Cán bộ quản lý các lĩnh vực của Công ty đã trưởng thành và hoạt động đồng đều hiệu quả. Diện sản xuất đã ổn định, các dự án mở rộng và duy trì được triển khai đạt tiến độ đề ra. Công tác sản xuất và tiêu thụ than từng bước đạt hiệu quả tích cực.Với những thành tích đạt được, Công ty than Hạ Long đã được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì vào ngày 28/7/2010.
Trong thời gian qua, Công ty Than Hạ Long đã có bước phát triển vượt bậc, cụ thể như sau:
1. Kết quả SXKD hàng năm luôn đạt ở mức cao, đặc biệt là sản lượng than hầm lò.
- Năm 2012 công ty đã sản xuất 1.838.500 tấn than nguyên khai, trong đó 1.476.200 tấn than hầm lò.
- Năm 2013, sản xuất: 1.807.600 tấn than nguyên khai, trong đó 1.599.400 tấn than hầm lò.
-Năm 2014, sản xuất 1.908.699 tấn than nguyên khai , trong đó 1.626.036 tấn than hầm lò.
- Năm 2015, sản xuất 1.883.000 tấn than nguyên khai , trong đó 1.717.000 tấn than hầm lò.
- Năm 2016, kế hoạch sản xuất 1.700.000 tấn than nguyên khai, trong đó 100% là than hầm lò.
2. Công tác đảm bảo An toàn – Vệ sinh lao động:
Công ty đã tích cực triển khai nhiều biện pháp nhằm đảm bảo an toàn cho người lao động; ý thức trách nhiệm của cán bộ chỉ huy điều hành sản xuất và công nhân được nâng cao. Kết quả cho thấy tình hình TNLĐ, sự cố năm sau luôn giảm nhiều so với các năm trước. Thực hiện công tác AT-VSLĐ hàng năm, thông qua hưởng ứng Tuần lễ Quốc gia về AT-VSLĐ-PCCN với nhiều hoạt động thiết thực. Xây dựng và hoàn thiện quy chế thưởng mục tiêu công tác an toàn. Tổ chức huấn luyện và thi AT-VSV giỏi, hội thi cấp cứu mỏ bán chuyên cấp Tập đoàn với thành tích cao. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Công đoàn, ĐTN tổ chức nhiều đợt tuyên truyền vận động CBCNV và kiểm tra chuyên đề, kiểm tra đột xuất tại đơn vị sản xuất ở các khu vực. Xây dựng chương trình kế hoạch AT-VSLĐ hàng năm. Mở các lớp đào tạo bồi dưỡng học tập nâng cao trình độ chuyên môn tay nghề, huấn luyện an toàn cho CBCNV.
Hiện nay Công ty đã triển khai lắp đặt hoàn thiện và đưa vào sử dụng các trạm quạt gió chính góp phần cải thiện tích cực tình trạng thông gió tại các đường lò tại các khu vực sản xuất. Triển khai mua sắm đầy đủ các trang thiết bị bảo hộ cá nhân như mặt nạ phòng bụi, bình tự cứu cá nhân, quần áo BHLĐ để cấp phát cho CBCNV... Trang bị bổ sung thêm máy móc thiết bị để đảm bảo lưu lượng gió ở vị trí làm việc, hệ thống nước dập bụi trong và ngoài lò, đảm bảo việc cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động...
Công tác vệ sinh công nghiệp, môi trường tại các vị trí sản xuất đã được quan tâm đúng mức. Toàn Công ty đang duy trí xây dựng văn hóa an toàn, thống qua các Ngày an toàn Công ty và các hoạt động cụ thể. Thực hiện phong trào Sáng – Thoáng - Xanh - Sạch - Đẹp, đảm bảo AT- VSLĐ. Công tác cải thiện điều kiện lao động và môi trường làm việc của Công ty luôn được quan tâm và thực hiện đúng với pháp luật và quy định. Trong những năm qua, công ty đã đặc biệt chú trọng, hàng năm việc trồng cây phủ bãi thải, hoàn nguyên môi trường các khu đã khai thác được thực hiện tốt, tăng cường các biện pháp xử lý nước, chất thải, nạo vét sông suối, tưới nước, dập bụi trên các tuyến đường vận tải, khu vực sản xuất... ý thức bảo vệ môi trường được thấm nhuần từ người lãnh đạo đến từng công nhân của Công ty.
3. Công tác đầu tư, đổi mới công nghệ, đầu tư xây dựng cơ bản để phát triển bền vững .
- Phải khẳng định rằng dây truyền công nghệ khai thác hiện tại của toàn Công ty than Hạ Long đã được đầu tư theo hướng cơ giới hoá, hiện đại hoá, sánh vai với các Công ty bạn có công nghệ khai thác hầm lò truyền thống và phù hợp với điều kiện địa chất của từng khu mỏ, từng khu vực đáp ứng được với yêu cầu đặt ra, đảm bảo an toàn, nâng cao năng suất lao động, cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động, bảo vệ môi trường và tăng nhanh sản lượng tạo tiền đề phát triển cho các năm sau.
Hiện tại Công ty đang tiếp tục triển khai Dự án Khe Chàm II-IV đây là một Dự án lớn, khi đạt công suất thiết kế sẽ đạt trên 3.500.000 tấn than hầm lò trên năm. Điều chỉnh một phần thiết kế kỹ thuật khu II thuộc dự án Bắc Cọc Sáu, lập thiết kế kỹ thuật thi công Dự án duy trì sản xuất khu Tây Đá Mài. Lập dự án xuống sâu mức - 400 khu vực Hà Ráng.
Tiếp tục thực hiện kế hoạch kỹ thuật dài hạn giai đoạn 2015÷ 2020, chiến lược phát triển Công ty giai đoạn 2015 -:- 2022, tầm nhìn đến năm 2030.
Đẩy mạnh cơ giới hóa đào lò và khai thác than tại các khu vực có khả năng áp dụng các dây truyền cơ giới hóa để tăng năng suất lao động, giảm số người làm việc trong hầm lò. Áp dụng các dây truyền công nghệ phù hợp với khoáng sàng của Công ty tại các khu vực có điều kiện địa chất phức tạp để giải phóng sức lao động cho công nhân. Phối hợp với Viện khoa học công nghệ mỏ triển khai xác định điều kiện địa chất vỉa lựa chọn kết cấu chống giữ hợp lý giảm thời gian và chi phí xén. Công ty đã đầu tư, nâng cấp thiết bị, máy móc như: thuyền trượt, tời hỗ trợ, cải thiện đường đi lại, phương tiện ra vào lò, tàu điện, máng cào, hệ thống băng tải, sàng tuyển chế biến. Trong đào chống lò đã đầu tư, nâng cấp máy khoan, khung giá chống, máy xúc đá, xúc than vv..tạo điều kiện nâng năng suất lao động. Phong trào sáng kiến cải tiến kỹ thuật được đẩy mạnh, góp phần nâng cao hiệu quả làm việc, tăng năng suất giảm giá thành, giá trị làm lợi nhiều tỷ đồng.
- Công tác giải quyết chế độ, chính sách:
Thu nhập của người lao động trong Công ty luôn ở tốp cao trong các đơn vị ngành Than. Năm 2012 đạt 8.480.000 đồng/ người/ tháng. Năm 2013 đạt 8.800.000 đồng/ người/ tháng. Năm 2014 đạt 9.593.000 đồng/ người/ tháng. Năm 2015 đạt 10.520.000 đồng/ người/ tháng.Năm 2016 phấn đấu đạt 10.941.000 đồng/ người/tháng.
Các chế độ ăn định lượng, bồi dưỡng độc hại, ăn ca thực hiện đúng với mức giao của Tập đoàn đồng thời đảm bảo an toàn vệ sinh an toàn thực phẩm, đáp ứng chế độ làm việc theo ca của người lao động và không ngừng đổi mới cách thức phù hợp với điều kiện làm việc, sinh hoạt, giá cả từng thời kỳ. Các nhà ăn tập thể được củng cố và điều hành thống nhất trong toàn Công ty, chất lượng các suất ăn ca, ăn định lượng được duy trì tốt để đảm bảo sức khỏe cho người lao động.
Công ty đóng đúng, đủ các chế độ Bảo hiểm cho các đối tượng CBCNV theo quy định. Khi người lao động ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, mắc bệnh nghề được giới thiệu đến bệnh viện khám và chữa trị đúng chế độ. Đảm bảo thực hiện đầy đủ chế độ điều dưỡng, phục hồi chức năng theo chỉ tiêu của Tập đoàn và chế độ chính sách đối với người lao động, Thực hiện nghiêm túc chế độ điều dưỡng phục hồi chức năng, khám phát hiện bệnh nghề nghiệp, cử đi rửa bụi phổi và khám sức khỏe định kỳ cho CBCNV theo quy định của Pháp luật lao động. Công tác phục vụ ăn, ở, tắm, giặt, đi lại của người lao động được Công ty quan tâm tích cực. Hiện nay có 792 CBCNV ở khu tập thể chung cư 5 tầng, Công ty đã bố trí một số phòng khách để đón tiếp thân nhân gia đình công nhân ra thăm.
Với tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái việc chăm lo đến hoàn cảnh của các gia đình khó khăn, có thân nhân bị tai nạn và người bị tai nạn lao động được đặc biệt quan tâm, chú trọng . Đã thăm hỏi thường xuyên các gia đình chính sách, gia đình công nhân có hoàn cảnh khó khăn, phối hợp với cấp, các ngành đồng thời đề nghị Tập đoàn hỗ trợ kinh phí xây mới và sửa chữa nhà ở cho các công nhân bị tai nạn lao động, gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Trong những năm qua Công ty đã chi hàng tỷ đồng cho công tác này. Uu tiên giúp đỡ nhận thân nhân các gia đình CBCNV có hoàn cảnh khó khăn vào làm việc tại Công ty.
Ngoài ra, Công ty cũng thực hiện tốt việc đóng góp xây dựng các công trình, giúp đỡ các hộ, các xã nghèo, phụng dưỡng các bà mẹ Việt Nam anh hùng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, ủng hộ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt... với số tiền hàng tỷ đồng.
Đã bố trí đủ phương tiện đưa đón CBCNV đi làm. Xây dựng hệ thống tắm nước nóng, nhà giặt, sấy BHLĐ hoạt động tốt. Các văn phòng của phân xưởng sản xuất, phòng ban có đủ tiện nghi phục vụ làm việc và giao ca, hội họp.
Hàng năm, Công ty đã tổ chức cho CBCNV xuất sắc đi tham quan du lịch trong và ngoài nước hoặc chi tiền cho các cá nhân nghỉ tại chỗ hoặc do các đơn vị tự tổ chức nghỉ cuối tuần theo đúng quy định.
Hoạt động văn hóa, thể thao được duy trì và có sự phát triển, hiện nay Công ty đã có sân đá bóng cỏ nhân tạo tổng diện tích: 2.500 m2 và 01 nhà tập luyện thể thao đa năng với tổng diện tích: 800 m2, cơ bản đáp ứng được nhu cầu vui chơi thể thao cho CB CNV đặc biệt là các đối tượng công nhân ở khu tập thể của Công ty. Tham gia đầy đủ các giải thể thao, văn hóa do Tập đoàn tổ chức với kết quả cao.
5. Công tác chăm lo phát triển nguồn nhân lực:
Là một công ty có có đặc thù riêng về địa bàn, cơ cấu, dây chuyền sản xuất. Trong suốt 28 năm qua với từng thời kỳ khác nhau, Công ty luôn xác định rõ vai trò quyết định của nguồn nhân lực trong sự phát triển. Chính vì vậy, công tác chăm lo đời sống, thu nhập, cải thiện điều kiện làm việc, sinh hoạt cho người lao động được đặc biệt chú trọng.
Từ những chính sách quan tâm đến người lao động, những phong trào ôn luyện tay nghề, thi thợ giỏi ở các cấp, tăng cường đào tạo bồi dưỡng bằng nhiều hình thức trong và ngoài nước, đến nay Công ty than Hạ Long có đội ngũ cán bộ công nhân viên là: 4.844 người (nữ 566 người).
Trong đó:
- Thợ lò: 2.235 người;
- Công nhân Cơ điện lò: 501 người;
* Về cơ cấu lao động:
- Lao động quản lý: 583 người
- Lao động phục vụ: 398 người
- Lao động phụ trợ: 701 người
- Lao động TTSX: 3.162 người
Qua 28 năm xây dựng trưởng thành và phát triển, đạt được những thành tích to lớn về mọi mặt là có sự quan tâm và tạo điều kiện của Tập đoàn TKV và các cấp, các ngành; sự lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ Công ty Than Hạ Long, sự phối hợp giữa Chuyên môn với Công đoàn, Đoàn thanh niên và các tổ chức chính trị, xã hội Công ty, sự nỗ lực vượt khó của tập thể CBCNV Công ty
* Vai trò lãnh đạo của Đảng ủy Công ty:
- Từ năm 1996 trở về trước Tổ chức Đảng của Công ty than Quảng Ninh không đồng cấp với chuyên môn. Ban đầu chỉ có các chi bộ trực thuộc là Chi bộ cơ quan Văn phòng Công ty và các Chi bộ nằm trên địa bàn thành phố Hạ Long trực thuộc Đảng bộ Khối Dân chính Đảng sau đó chuyển về Thành uỷ Hạ Long quản lý, Chi bộ các Xí nghiệp trực thuộc: Thị uỷ Cẩm Phả, huyện uỷ Đông triều, huyện uỷ Hoành Bồ. Các tổ chức chính trị khác cũng theo mô hình quản lý trên. Do đó sự lãnh đạo của Đảng, sự phối kết hợp của các tổ chức chính trị trong việc chỉ đạo sản xuất kinh doanh và thực hiện các nhiệm vụ chính trị khác thiếu đồng bộ. Nhằm khắc phục những khiếm khuyết đó, được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng bộ cấp trên. Ngày 02/10/1996, Đảng bộ công ty than Quảng Ninh được thành lập theo Quyết định số: 40QĐ/ĐUT của Ban Thường vụ Đảng uỷ Than Quảng Ninh.
Ngày 21 tháng 6 năm 1997 Đại hội đại biểu Đảng bộ Công ty lần thứ nhất nhiệm kỳ (1997 -:- 2000) được tiến hành, Đại hội đã bầu được 15 đồng chí UVBCH Đảng bộ Công ty khoá I. Tại thời điểm này toàn Đảng bộ có: 10 chi bộ trực thuộc với 206 đảng viên, đây là một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng của toàn Công ty, từ đây mọi sự hoạt động của Công ty đều đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ Công ty.
Từ khi thành lập Đảng bộ công ty than Quảng Ninh nay là Đảng bộ công ty than Hạ Long đã lãnh đạo toàn diện về mọi mặt trong đời sống kinh tế xã hội, trong sản xuất kinh doanh v.v... Đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, kế hoạch năm sau cao hơn năm trước, đời sống cán bộ công nhân viên chức toàn Công ty ngày càng được cải thiện. Đảng bộ Công ty than Hạ Long nhiều năm đã được Đảng bộ cấp trên khen ngợi và đạt danh hiệu là Đảng Bộ trong sạch vững mạnh.
Trong giai đoạn từ 01/10/2013 tới nay: Đảng bộ Công ty luôn tập hợp được những đồng chí có đủ tài năng, phẩm chất và đạo đức cách mạng để lãnh đạo Tập thể CBCNV Công ty hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị cấp trên giao. Ban Chấp hành Đảng bộ Công ty hiện nay có 18 đồng chí; số lượng Đảng viên toàn Đảng bộ là 1020 người. Công tác phát triển Đảng viên được BCH Đảng bộ đặc biệt quan tâm,nhiều quần chúng là nữ, công nhân lao động trực tiếp, nhất là thợ lò, thợ bậc cao và những cán bộ quản lý về kỹ thuật, nghiệp vụ trẻ có năng lực, trình độ được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam. Các đảng viên mới được kết nạp đã phát huy tốt trong từng cương vị được giao, nhiều đồng chí được cất nhắc đề bạt giữ các cương vị chủ chốt, lãnh đạo các phòng kỹ thuật, nghiệp vụ, phân xưởng sản xuất.
* Sự phối kết hợp của các tổ chức đoàn thể, quần chúng:
a- Ra đời cùng với ngày thành lập Công ty, Công đoàn Công ty Than Hạ Long luôn đồng hành với quá trình xây dựng và phát triển của Công ty. Với chức năng phối hợp tham gia quản lý Doanh nghiệp, chăm lo bảo vệ quyền lợi chính đáng và lợi ích hợp pháp của người lao động. Công đoàn Công ty dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng đã có nhiều hoạt động tích cực, tham gia kết hợp với chuyên môn về việc sắp xếp lại tổ chức sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động, kiểm tra giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách, quy chế phân phối tiền lương,tiền thưởng...
Công đoàn Công ty Than Hạ Long phối kết hợp với cơ quan Chuyên môn, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu Chiến binh trong việc tuyên truyền giáo dục công nhân lao động giác ngộ về truyền thống giai cấp công nhân Việt Nam, truyền thống công nhân Vùng Mỏ; Giáo dục rèn luyện xây dựng đội ngũ công nhân theo định hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, có tác phong công nghiệp, ý thức kỷ luật lao động cao, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, tích cực tham gia công tác xã hội, cộng đồng.
Công đoàn Công ty thường xuyên phát động và tổ chức các phong trào thi đua thực hiện mục tiêu “An toàn - Đổi mới – Phát triển - Hiệu quả”, phong trào “ Sáng – Thoáng - Xanh - Sạch - Đẹp, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động”, phong trào “Lao động sáng tạo”, “Ôn lý thuyết- Luyện tay nghề- Thi thợ giỏi”, “Xây dựng đời sống văn hoá tốt ở cơ sở”, phong trào thi đua “Hai giỏi” trong nữ CNVC- LĐ v.v...
Trong 28 năm xây dựng và phát triển, các cấp Công đoàn Công ty Than Hạ Long đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng, phát triển Công ty Than Hạ Long hôm nay. Với kết quả đó, nhiều tập thể, cá nhân cán bộ đoàn viên Công đoàn đã được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Công đoàn cấp trên tặng thưởng nhiều Cờ, Bằng khen, Bằng Lao động sáng tạo. Đặc biệt ngày 15 tháng 7 năm 2014, Công đoàn Công ty than Hạ Long đã được đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba.
b- Đoàn thanh niên Công ty than Hạ Long được thành lập ngày 15/5/1997. Hiện nay có trên 2300 ĐVTN. Liên tục trong các năm, Đoàn thanh niên Công ty luôn đạt danh hiệu vững mạnh xuât sắc trong phong trào thi đua của Đoàn than Quảng Ninh và Tỉnh đoàn Quảng Ninh.
Đoàn thanh niên công ty quan tâm giáo dục,tập hợp, rèn luyện thanh niên thông qua các nội dung hoạt động như : Công tác tuyên truyền giáo dục chính trị tư tưởng, cổ vũ động viên đoàn viên thanh niên xung kích trên mặt trận lao động sản xuất, đẩy mạnh các hoạt động phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, vươn lên làm chủ công nghệ và các máy móc thiết bị mới trong sản xuất.Công tác tư tưởng văn hoá đã được Đoàn thanh niên công ty coi trọng nhằm tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Đoàn thanh niên công ty và các cơ sở đoàn đã chủ động, kịp thời nắm bắt nội dung các chỉ thị nghị quyết của Đảng, của Đảng bộ Than Quảng Ninh, Đảng uỷ Công ty, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh hàng năm của Công ty.
Phong trào hoạt động do Đoàn tổ chức đã lôi cuốn được nhiều đoàn viên thanh niên hăng hái tham gia hưởng ứng,những hoạt động đăng ký đảm nhận nghiên cứu đề tài, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất,đảm nhận công trình, phần việc từ cấp Công ty đến cấp Phòng ban, Phân xưởng, tổ đội; Xây dựng mô hình thanh niên quản lý xe máy, thiết bị, tuyến đường, đường lò thanh niên quản lý đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả vv...đã trở thành nội dung hoạt động phổ biến ở các cơ sở đoàn. Vinh dự cho tập thể CB đoàn viên Công ty, ngày 27/8/ 2013, Đoàn TN Công ty than đã vinh dự được Chủ tịch Nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.
c - Hội Cựu Chiến binh Công ty được thành lập từ ngày 18/2/2014; hiện nay có 164 hội viên. Hội CCB được Đảng bộ Công ty luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao mọi hoạt động của Hội cựu chiến binh, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội cựu chiến binh và các Hội viên trong toàn Công ty. Hội CCB đã làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho hội viên nhằm nâng cao nhận thức vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Hội cựu chiến binh. Củng cố lòng tin, bản lĩnh chính trị, kiên định mục tiêu lý tưởng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Hội viên hội cựu chiến binh đã phát huy được truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” luôn đi đầu gương mẫu trong mọi lĩnh vực công tác, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được phân công, chấp hành tốt mọi chủ trương đường lối chính sách, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Trong những ngày này, CBCNV Công ty Than Hạ Long đang hăng hái thi đua lao động sản xuất để chào mừng kỷ niệm 28 năm ngày thành lậpCông ty. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Công ty, các tổ chức chuyên môn, đoàn thể, các phòng ban phân xưởng, tổ đội cần tuyên truyền sâu rộng những truyền thống tốt đẹp của Công ty Than Ha Long, đặc biệt Truyền thống vượt khó, kỷ luật đồng tâm của công nhân, cán bộ vùng Mỏ, từ đó chung sức, chung lòng gắn bó cùng doanh nghiệp. Động viên khích lệ CBCNV không ngừng nâng cao tinh thần cầu tiến, rèn luyện bản lĩnh chính trị và trình độ kỹ năng tay nghề,bậc thợ. Không ngại gian khổ, vượt qua khó khăn với tinh thần “ Sản xuất Than như Quân đội đánh giặc”, trong mọi hoàn cảnh của trước đây cũng như hôm nay, để thực hiện tốt nhất mọi nhiệm vụ được giao. Phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của toàn Công ty thực hiện mục tiêu An toàn - Đổi mới - Tăng trưởng - Hiệu quả. Vững bước trên con đường xây dựng Công ty Than Hạ Long phát triển bền vững.
Tác giả: Tác giả: Tuấn Anh – Bộ phận Truyền thông Công ty